Vào miệt tiêu phương Nam, tôi đã gặp cánh chim sau mùa di trú ấy. Đó là Khổng Văn Đương, người viết bài thơ tình nổi tiếng “Em đi tìm anh trên bán đảo Ban Căng”, người mới được trả lại quyền tác giả bài thơ từng gây xôn xao dư luận. Đương của ngày nào, của cách đây 43 năm đã bay sang trời Âu, du học ở Rumani sau khi tốt nghiệp cấp III Long Châu Sa của tỉnh Phú Thọ (khoá 1962 - 1965). Số phận đã chia chúng tôi thành hai ngả, người du học nước ngoài, người học đại học trong nước rồi vào bộ đội. Đằng đẵng ngót nửa thế kỷ, số phận lại cho chúng tôi gặp nhau, khi tôi vào phương Nam, tại miệt tiêu giáp ranh tỉnh Bình Dương và Bình Phước, khi cả hai đã xong một đời công tác (đã nghỉ hưu), tóc muối tiêu, cùng dắt hai bà vợ đi cùng.
Khổng Văn Đương (bên phải) |
Tình xuyên quốc gia… đứt gánh
Chúng tôi thuộc lớp người nâng niu kỷ niệm. Tuổi thành người vỡ tan và chiến bại cứ thiêng liêng chẳng thời gian và nước mắt nào xoá nổi. Ra khỏi chặng đời tẻ nhạt đầy ganh đua của đám thư lại thời bình, như một nhà văn lão làng Việt Nam hoài cảm, ngoảnh lại mới thấy thấm cái giá phải trả của chuỗi ngày tập im để đổi lấy sự yên ổn, càng thấy lấp lánh sáng lên chút bụi vàng kỷ niệm của tuổi học trò. Người ta bảo gặm nhấm kỷ niệm là dấu hiệu của tuổi xế chiều, nhưng làm sao quên nổi những ngày đẹp đẽ, tin tưởng, cuồng nhiệt của tuổi 20. Chúng tôi ôm nhau trong miền thiêng kỷ niệm. Ơn trời, ngọn lửa ấy vẫn còn.
Nếu ngọn lửa nguội tắt, hoặc trơn nhẽo bàn tay hờ hững như những con sứa thiếu sinh khí, hoặc mờ đục cái nhìn âm u vô hồn, thì còn gì để nói. Kỷ niệm không như những đồng tiền nhét ví, sau gặp gỡ là phung phí tiêu đến sạch trơn. Khổng Văn Đương đã kể về mình, về vụ yêu đương đầu đời trên đất Ban Căng khi còn là sinh viên du học ở Rumani cùng tập thơ “Tình quê hương” gồm hơn 100 bài thơ của anh đã bị “tổ chức” (hồi ấy) tịch thu, có thể bị cho vào lửa, bởi đã cả gan yêu một cô gái nước ngoài tên là Valentina khi cả nước đang hồi chiến tranh khốc liệt, khi cái chết không từ bất cứ ai mà bọn Đương lại được gửi ra nước ngoài, được chăm sóc như những hạt giống quý, khi đất nước đã dùng đến những hạt gạo trên sàng là lớp sinh viên trong nước cứ hăng hái theo nhau ra mặt trận. Và Đương đã kịp nhận ra nguy cơ nếu không chấm dứt cuộc yêu đương động trời với cô gái có mái tóc nâu màu hạt dẻ, có cặp mắt xanh mênh mông trời Hắc Hải thì sẽ bị trục xuất về nước. Anh đã chọn kết cục ngoài mong muốn là chôn chặt mối tình với Valentina. Còn Valentina của anh đã buồn bã đến phát điên. Lần cuối anh trốn đến Brasov thăm nàng là một ngày buồn thê thảm. Valentina tiều tụy nằm trên giường, ánh mắt vô hồn. Thấy anh, nàng bật dậy, ôm chặt lấy, nức nở kêu tên anh, hôn rối rít trong tràn trề nước mắt. Có thể đó là một ngày buồn nhất trong thời trai trẻ của Đương.
Rồi nàng gửi cho anh môt bức thư đầy bi thiết, đầy oán hận. Nhận thư nàng, anh vô cùng đau đớn và trống vắng. Rồi một chiều tháng 3.1969, chỉ còn một mình bên của sổ, ngoài trời tuyết dày đặc trắng xoá, anh đem thư nàng ra đọc lại. Trong cồn cào nhớ thương và xót hận, Đương đã viết một mạch bài thơ “Em đi tìm anh trên bán đảo Ban Căng”, mô phỏng toàn bộ nỗi niềm ai oán, giận hờn và khao khát của nàng trong bức thư kia.
“Em đi tìm anh trên bán đảo Ban Căng
Tìm không thấy chỉ thấy trời im lặng”
… Đó là câu thơ mở đầu của dằng dặc cuộc kiếm tìm vô vọng, khi trèo đỉnh Các Pát, khi bàn chân xa lắc tím trời Âu, khi nhức nhối rì rầm dòng Đanuýp, khi dào dạt sóng vỡ Biển Đen… Nữ hoàng tình yêu Valentina của anh đã tìm anh khắp bán đảo Ban Căng, còn anh thì buộc lòng phải trốn chạy. Rồi ngày chia ly đã đến. Ngày 17.6.1971, kết thúc khoá học, các anh lên tàu liên vận từ Bucaret về nước, nàng mảnh mai trong bộ áo pul da trời, váy trắng ướp đầy vạt nắng, chới với vẫy, như cố níu lấy đoàn tàu, giàn giụa nước mắt tiễn biệt, vô vọng, chia ly, khiến thêm một lần trái tim kẻ chạy trốn (là Đương) rỉ máu.
Bài thơ sẽ rơi vào im lặng, sẽ mãi mãi bị người ta gán tên tác giả là Onga Becgon - nữ nhà thơ Nga nổi tiếng (1910- 1975), nếu như năm 1990, Nhà xuất bản Văn hoá không cho ấn hành cuốn sách “Almanach người đẹp và phái đẹp”, trong đó có mục “Những bài thơ tình hay của thế giới và Việt Nam” đã in bài thơ “Em đi tìm anh trên bán đảo Ban Căng” ghi tên tác giả là Onga Becgon! Thơ in từ 1990, mãi tới bảy năm sau, người đứt ruột đẻ ra nó là Khổng Văn Đương mới gửi thư tới Nhà xuất bản, yêu cầu xin được đính chính, rồi sự việc rơi vào im lặng. Đương, chàng lãng tử làm thơ cũng chẳng mấy quan tâm nữa.
Cho tới ngày 17- 11- 2004, Báo Văn nghệ công an đã nhận được lá thư của Khổng Văn Đương nhờ gửi tới Trung tâm quyền tác giả Việt Nam thuộc Hội nhà văn Việt Nam, đề nghị hai vấn đề. Một là, xin tiến hành thủ tục theo Luật bảo hộ quyền tác giả của bài thơ “Em đi tìm anh trên bán đảo Ban Căng” là của Khổng Văn Đương. Hai là, xin Trung tâm cho in lại bài thơ theo bản gốc được tác giả chép tay gửi kèm. Đương không nhằm bảo hộ quyền lợi vật chất (nhuận bút) mà chỉ xin bảo hộ một điều duy nhất là tránh tam sao thất bản, và đồng ý cho bất kỳ ai cũng có quyền sao chép, sử dụng bài thơ vào mục đích tuyên truyền văn hoá lành mạnh.
Sự rụt rè của Đương một lần nữa khiến dư luận rộ lên và trở thành đề tài cuốn hút của báo chí. Để rồi, chính những bạn bè cùng du học với anh, những cựu sinh viên một thời sống ở Ban Căng, coi tác giả bài thơ “Em đi tìm anh trên bán đảo Ban Căng” như một người hùng, từng truyền nhau chép tay bài thơ này, đã lên tiếng khẳng định: Khổng Văn Đương đích thực là tác giả bài thơ tình nổi tiếng ấy.
Khúc vĩ thanh có hậu
Tôi ôm chặt Đương, khi Thượng đế cho chúng tôi được gặp lại nhau. Bên bà vợ yêu từng là sinh viên tốt nghiệp Đại học Dược Hà Nội năm 1971, Đương thì thào vào tai tôi rằng, sau vụ yêu đương ấy, Đương bị khai trừ ra khỏi Đoàn thanh niên. Về nước, sau những thăng trầm, mặc cảm, Đương đã qua những chặng đường gập ghềnh, kể cả tình yêu lẫn sự nghiệp. Năm 1980, Đương được kết nạp vào Đảng. Nhiều năm là chiến sỹ thi đua cấp ngành, cấp thành phố, Đương đã thành Đảng uỷ viên của Đảng bộ Tổng công ty Dược Việt Nam, và suýt thành anh hùng lao động thời kỳ đổi mới, nếu như không xảy ra trục trặc riêng tư gia đình. Và Thượng đế đã cho anh một cơ hội may mắn nữa. Đó là tháng 7.1979, trong dịp được Tổng công ty Dược Việt Nam cử đi công tác tại Tiệp Khắc, Đương đã gặp lại Valentina, người con gái mà Chúa đã trao cho anh trong chiều bão tuyết tại Bucaret năm 1967, khi nàng 17 tuổi, khi anh còn là chàng sinh viên khoa Hoá tại trường Đại học Bách khoa Georgiu Dej Bucaret Rumani. Nhận được tin Đương, nàng đã cùng chồng và đứa con trai kháu khỉnh có mặt tại Tiệp Khắc thăm anh. Ông chồng người Đức phúc hậu của Valentina đã trao trả nàng cho Đương một tuần. Suốt tuần, mặt trời lại hực nắng Ban Căng. Nàng vẫn xinh đẹp, nồng nàn và hạnh phúc, không như Đương lo lắng. Đó là khúc vĩ thanh có hậu cho tuổi trẻ và tình yêu bị chia lìa, cả khi đôi trẻ đã quỳ lạy, van xin để có được tình yêu không biên giới.
“Con lạy tạ Giê su ban phép lạ
Cho nước Người hết ly biệt chia phôi
Hai chúng con quỳ trước Người đa tạ
Xin hoà tan làm một, ngàn đời”…
Bây giờ, tình yêu và nụ hôn đầu đời đã thuộc về cõi thăm thẳm. Chúa đã an bài, bù cho Đương một người vợ dịu dàng, xinh đẹp, khi họ đã qua chặng thứ hai của hạnh phúc, cùng dắt nhau bước sang tuổi lục tuần. Chúng tôi cùng vợ chồng Đương rời Thành phố Hồ Chí Minh theo quốc lộ 13 về thăm miệt vườn trang trại của gia đình anh, của các em trai anh ở cuối tỉnh Bình Dương, nơi trước đây hoang vu những khu rừng bị Mỹ rải chất độc hoá học, nơi giờ đây đang sôi động nhịp sống công nghiệp hoá, đô thị hoá với tốc độ ngựa phi đứng đầu cả nước. Vợ Đương là người đa cảm, nhân ái, tự trọng, gốc Huế, thân mẫu thuộc dòng dõi Tôn nữ.
Chị ngồi im trước khúc nhôi dằng dặc đầu đời của chồng, không can thiệp vào cuộc hàn huyên sôi nổi của chồng với khách. Chị đã về quê chồng, lội ruộng, gánh gạch xây lại mộ tổ một nhánh họ Khổng của Đương ở Tứ Xã, Lâm Thao, Phú Thọ. Họ hàng có bà lặng lẽ theo dõi chị, xếp cho chị gánh gạch thật nặng, thử sức nàng dâu tóc ngắn xem có gánh nổi không. Chị đã gánh và lội vững vàng trên con bờ ruộng bị xén vạt chỉ còn nhỏ bằng hai hàng lúa ấy. Cũng trong lần về quê ấy, vợ chồng Đương đã hiến một số tiền không nhỏ cùng nội tộc xây lại nhà thờ tổ tiên, hỗ trợ làng xã một số việc công đức khác. Còn ở Bình Dương, các em trai đã được Đương đầu tư mỗi người một trang trại mênh mông mấy chục ngàn mét vuông. Đương còn chu cấp lập quỹ hưu riêng cho cô em gái và một số người thân trong nội tộc từ quê vào định cư lập nghiệp tại Bình Dương mỗi tháng đều đặn vài trăm ngàn đồng. Cả khi Đương cho chú em trai hơn chục triệu đồng ăn Tết, nhưng anh chàng đã nướng gọn trong cuộc rong chơi, chọi gà và em ún, khiến vợ chồng Đương lúc đầu tỏ ra thất vọng. Nhưng khi nghe chú em út là Khổng Văn Cường, một sĩ quan Công binh ở Bình Dương đã về mất sức nay làm Chủ tịch xã Tân Long, huyện Phú Giáo phân bua và lý sự vui rằng, tiền bác cả cho bác hai cốt để tìm được niềm vui, nay bác dùng vào cuộc vui thì cũng chả nên phàn nàn nữa. Đương gật gù cho qua, còn bà vợ tốt nhịn của anh thì chắc gì đã đồng ý với kiểu lý sự “ huề cả làng” đó. Vâng, dù có là tiền núi, tiền lương thiện chắt chiu từ mồ hôi nước mắt mà cứ hào phóng thương nhau như thế thì đến Bụt cũng phải xót xa.
Xin hãy đọc lại tập thơ bị “tịch thu” ngày trước
Nửa tháng sau cuộc gặp gỡ ở miệt tiêu nam bộ, đúng hẹn, tôi đã nhận được tập thơ của Đương chép lại theo trí nhớ rút từ hơn 60 bài thơ trong tập “Tình quê hương” anh viết từ năm 1963 đến 1971. Tập thơ bị tịch thu ở Bucarets năm xưa cùng với ngót 90 bài thơ thất lạc khác, gom lại còn 15 bài cả thảy. Tập thơ chia làm 3 phần: Quê nghèo, Bucarets, và Valentina. Sáu bài trong phần Quê nghèo là nỗi thương mẹ, thương em, là tình yêu mơ mộng tuổi học trò sau dịp những học sinh cuối cấp trường Long Châu Sa chúng tôi vượt bến đò Gành, sang Cổ Tiết, vào hang Gió, đi lao động trồng sắn cạnh nông trường Vạn Xuân thuộc huyện Tam Nông bên kia sông Hồng. Tôi thì mê mải ngắm nhìn những quả bứa, quả ngoã lần đầu tiên trong đời được đặt chân vào rừng. Còn Đương biết đâu đã gặp một cô nàng xinh đẹp. Hoặc một chiều trên sông Lô, cậu học trò đa cảm đã cảm ánh mắt long lanh giữa bồng bềnh thơ thới sóng xuôi mà thơ phú. Đương giỏi toán, trong nhóm toán được trường chọn đi thi khu vực cùng với Tạ Văn Lâu và Nguyễn Văn Sứ của lớp 10A. Lâu, nghe nói đã chết đuối ở đầm Con Lợn, nơi ẩn chứa nhiều dấu tích của văn hoá Sơn Vi. Còn Sứ đi Trung Quốc, sau cách mạng văn hoá, trở về nước học tiếp đại học, thành kỹ sư đóng tầu. Sứ hiền lành mà lận đận. Một người giỏi toán mà không giỏi tính.
Đến nay, con nguời gầy gò này vẫn thuộc làu nhiều chương hồi của Tam Quốc diễn nghĩa, vẫn say sưa các định lý toán học, vẫn lơ lửng trên trời mà quên mất định lý lớn nhất của cuộc đời là phải biết hạ cánh xuống mặt đất để làm ăn, để sống. Vợ Sứ đã không chịu nổi cái nghi ngơ ấy, đã lặng lẽ về quê mua áo mới tặng mẹ chồng, rồi bật khóc chào bà cụ rồi chia tay, để lại cho anh hai đứa con gái. Ngờ đâu, 43 năm trước, khi còn học lớp 10 cùng nhau, Đương đã viết bài thơ “Chiều trung du”, đến bây giờ, có những câu thơ còn đứng được nhờ cảm quan văn học và cái nhìn khác biệt.
“Đồng lúa sương mờ như giăng sữa
Mái tranh khói lượn tựa đuôi diều
Lất phất mưa xuân rơi bụi phấn
Bâng khuâng lòng nhớ một câu Kiều”.
Câu thơ Đạm Thanh sớm linh ứng vào một đời đào hoa ngay từ năm 19 tuổi, chớm Xuân.
Sót lại trong phần Bucarets còn 4 bài. “Đông châu Âu” lung linh tuyết rơi, nghe tiếng gà gáy, nhớ quê da diết; “Thu vàng” lá rụng, muốn kéo thời gian ngược chiều; “Quê người” được tin đôi mắt sông Lô năm xưa theo người sang sông, buồn muốn khóc….
Nhưng hơn cả nỗi buồn nhớ là tình yêu cháy bỏng trào dâng nỗi tuyệt vọng dồn vào Valentina, chất chứa suốt 5 bài thơ từ “Hắc hải đêm hè”, “Brasov” đến “ Em đi tìm anh trên bán đảo Ban Căng”. Cuối cùng là “Tự ngẫm” đầy đau khổ.
“Sáu năm ở đất Ban Căng
Vì yêu để nợ ngàn năm đất này”.
Và “Cầu siêu xin biến kiếp người
Thành tơ hồng quấn, ngàn đời vào nhau”.
Đáng nói là khi tịch thu và cho huỷ tập thơ ấy của Đương liệu các nhà tổ chức có biết lẫn trong những bài thơ tình cháy bỏng có cả những bài thơ có lửa, qua thời lửa cháy, qua thời xa vắng và ấu trĩ vẫn không tắt “Valentina - Tình yêu thế kỷ”. Xin trích ra những đoạn, không nhằm bênh vực, bởi mọi sự đã qua. Cái thời cả nước lâm trận, cả nước lạc quan, chỉ được phép tin tưởng, không được phép hoài nghi, thì mỗi sinh linh đất Việt đều có một nỗi đau phải vượt qua, kể cả người trong nước và người tu nghiệp ở nước ngoài. Mỗi người một nỗi đau, chỉ đến bây giờ mới nói ra. Thời ấy cả nước làm thơ, thơ không thể ngoài cuộc, kể cả thơ của những người đang khốn khổ yêu đương ở nước ngoài.
"Em có hiểu tình Anh chứa chan
Nhưng quê anh chinh chiến điêu tàn
Giặc Mỹ đến ném bom rải thảm
Giết trẻ em tàn phá dân làng
Anh sẽ về Việt Nam chiến đấu
Hiến thân mình bảo vệ quê hương
Và mang theo tình em yêu dấu
Đi cùng anh ra khắp chiến trường
Em sẽ khóc thương em vĩnh biệt
Một dòng sông nước mắt tuôn trào
Thân dù chết. Tình yêu không chết
Sống muôn đời như trăng như sao”
Bây giờ, khi đã sang chiều của một đời người trải nghiệm, sau từng ấy năm đoạn tuyệt thơ, tự ngẫm thơ là địa hạt đầy mạo hiểm, dính vào là tai vạ, hơn thế nếu cứ mãi chung nhau một giọng điệu thì thơ sẽ tụt lùi, Khổng Văn Đương người có ba nốt ruồi tròn xếp thành hàng ngang ở xương đòn gánh lại…cầm bút...làm thơ. Phải chăng thơ là điểm đỗ cuối cùng của một đời người, cả người đào hoa lẫn người trận mạc. Anh viết bài “Về quê” đề ngày 5/4/2008, trong dịp về quê thăm Tứ Xã mới đây. Ùa về những kỷ niệm xa vời của quê cha đất mẹ, nhưng cũng canh cánh một nỗi lo thường trực khi
“Làng quê ta giờ đất chật, người sinh sôi chen vào nhau đông nghịt
Bầu trời chẳng còn trong, chỉ mờ mờ khói sương axit
Ôi làng xưa mà ta khắc vào tim
Và hồn quê trong quá khứ đâu tìm…
Xây dựng lại những ngôi đình làng che mát các em thơ
Nơi các cụ già bàn việc làng, việc nước, làm thơ”.
Không chỉ mơ màng đau đáu trong thơ, Khổng Văn Đương đã làm được việc đúng với lòng mình. Anh muốn gửi về quê chút tiền dành dụm được để cùng quê hương xây lại ngôi đình, như một số người con của Tứ Xã còn nặng lòng thương nhớ cái tổ ấm đã nâng cánh đàn chim bay khắp bốn phương trời, trong đó có anh, một cánh chim đã đỗ ở phương Nam sau mùa di trú.
Cao Văn Định
Nguồn: VieTimes
Gửi TP và các bạn bài viết này, (trên mạng) để góp phần giải đáp một chút yêu cầu của TP.
Trả lờiXóaCám ơn QT.
Trả lờiXóa@TP : Có thể xem các bài thơ nguyên bản tiếng Nga của O.B (93 bài)ở đây.
Và danh sách khoảng 90 bài song ngữ Nga-Việt (Thuỵ Anh dịch) tại trang "Thi viên" (vào trang này ,để đọc toàn bộ cần đăng ký tài khoản)
Ở cả 2 nơi,ko có tên bài thơ 'Em đi tìm anh trên bán đảo Ban-căng'.
Rất tiếc trong link TLđưa ra ko có bài thơ nổi tiếng " Cuộc đời " nhỉ :
Trả lờiXóa" Em nhớ lại chuyện ngày qua khứ...
Ngôi sao cháy bùng trên sóng nước Nê-va...
Và tiếng chim kêu mỗi buổi chiều tà..,"
He he ! lâu quá quên hết rùi !
Ai có đăng lên nha ! xin cảm ơn trước .
@ A QT: Em chỉnh lại phần trình bày một chút nha. Hôm qua lúc đăng chắc anh dán vào phần viết nên bài đăng bị tràn ra ngoài khung.
Trả lờiXóa@HD : có đấy,ở đường dẫn thứ 2.
Trả lờiXóaCậu nhắc tới,thì cậu phải đăng thôi. (để thư thư một vài ngày,chờ vãn chuyện "Em đi tìm..." đã)
Để tiện so sánh, TP xin gửi đến các anh chị bài thơ "Em đi tìm anh trên bán đảo Bancăng" của nữ thi sĩ ÔNGA BÉCGÔN. Bài thơ này được đăng cùng với bài "Mùa lá rụng" đồng tác giả. Nguồn trích cả hai bài thơ này trong tập thơ "Mùa trăng mong chờ" Nhà xuất bản Phụ nữ 1985.
Trả lờiXóaEM ĐI TÌM ANH TRÊN BÁN ĐẢO BANCĂNG
Em đi tìm anh trên bán đảo Bancăng
Tìm không thấy chỉ thấy trời im lặng
Một mình em trong đêm dài thanh vắng
Em đi tìm anh trên bán đảo Bancăng.
Em trèo lên đỉnh núi cao Cácpát
Nhìn theo anh mất hút về đâu
Chân ai đi xa lắc bóng trời Âu
Dòng nước mắt bỗng trào ra chua chát.
Em lại đến biển Đen xưa dào dạt
Sóng ven bờ gọi lên tiếng triền miên
Buồn! Chao ôi gió làm em xiêu bạt
Thân cô đơn kinh khiếp cả trăng hiền.
Em lại đến dòng sông Danuýp
Thấy gì trăng nằm sâu giữa dòng sông
Mà ngàn năm sóng cùng trời một nhịp
Chỉ mình em nhức nhối vết thương lòng.
Ôi Trái đất rộng làm chi bát ngát
Cho loài người chia biên giới thế gian
Cho sa mạc thổi bùng lên ngọn lửa
Cho tình ta chưa bén đã vội tàn.
Ôi nhân loại mấy nghìn năm kiếp sống
Có hay chăng quằn quại một tình yêu
Anh có nghe chăng sóng cồn xao động
Em lang thang lạc lõng giữa rừng chiều.
Em không biết và không muốn biết
Trái tim anh sao tê lạnh thờ ơ
Và em biết, tình anh dù đã hết
Em vẫn mong, vẫn hi vọng, vẫn chờ.
Em lại trèo lên đỉnh cao Cácpát
Lại đến dòng Danuýp giữa đêm trăng
Em lại đến biển Đen xưa dào dạt
Em đi tìm anh trên bán đảo Bancăng.
Cám ơn bạn Trần Trung, cám ơn anh Tuấn Linh đã cung cấp những tư liệu cho buổi hội thảo. Trước tiên, TP xin phát biểu cảm tưởng của mình về tác giả Khổng Văn Đương. Anh là một tri thức có lí tưởng, có một tình yêu thật lãng mạn, đẹp đẽ. Anh có nghị lực biết vượt lên số phận và anh có một tâm hồn thi sĩ, biết làm đẹp cho đời. Cuộc hành trình đòi lại bản quyền bài thơ của anh thật là vất vả. TP và nhiều bạn yêu thơ vui mừng khi quyền tác giả của bài thơ đã trả về cho anh. Nhưng không ai muốn xảy ra tranh chấp quyền tác giả trong sáng tác thơ ca nói riêng. Khi đã xảy ra tranh chấp thì các bên phải chứng minh bằng những chứng cớ không thể chối cãi được. Toà án chỉ tin một điều duy nhất là chứng cứ mà thôi. Ở đây có vấn đề cần phải nói. Tại sao ấn phấm "ALMANACH - Người mẹ & Phái đẹp", một ấn phẩm có uy tín được biên soạn bởi một đội ngũ bậc thầy và hơn 300 cộng tác viên có uy tín mà lại đề xảy ra sự nhầm lẫn đáng tiếc quyền tác giả bài thơ như vậy. Ta thấy nguồn trích dẫn đăng bài thơ này là tập thơ "Mùa trăng mong chờ" - NXB Phụ nữ - 1985. Như vậy, không thể nói là việc biên soạn thiếu nghiêm túc và cẩu thả được. Sau khi ấn phẩm này ra đời, tác giả Khổng Văn Đương đã lên tiếng xin đính chính quyền tác giả của mình. Tại sao NXB Văn hoá không có văn bản trả lời chính thức cho tác giả. Ngay cả đến bây giờ cũng không có trả lời về việc này.
Trả lờiXóaRiêng phần chứng minh tác quyền của anh Khổng Văn Đương tôi thấy rất khó khăn. Sự việc xảy ra đã quá lâu, nhân chứng, vật chứng đều không đáng tin cậy. Chúng ta biết rằng mối tình của anh với cô gái Rumani là có thật. Nhưng mối tình này không thể là chứng cớ cho quyền tác giả của anh được. TP lấy làm tiếc là tại sao anh không gửi tặng bài thơ này cho người yêu của anh ngay lúc đó. Nếu được vậy chắc chắn bài thơ này được lưu giữ đến bây giờ. Nó là một bằng chứng có giá trị đấy. Tại sao người yêu của anh lại không biết được bài thơ này? TP nghĩ rằng nếu đưa ra toà án Quốc tế thì anh Khổng Văn Đương không có khả năng giành phần thắng. Chắc các anh chị du học ở Liên-xô cũ đều biết nghi án về quyền tác giả "Sông đông êm đềm" của đại văn hào Sô-lô-khốp. Người ta đưa ra luận cứ là: Sô-lô-khốp học vấn không cao, tác phẩm "Sông đông êm đềm" của ông được viết phần lớn dựa vào cốt truyện của một người khác, hơn nữa, những tác phẩm về sau này của ông kém hẳn với "Sông đông êm đềm". Và còn nữa, ông viết "Sông đông êm đềm" lúc còn quá trẻ, chưa đủ trải nghiệm. Phải rất vất vả mới xác lập lại được bản quyền. Đất nước ta đã bước vào thời kì hội nhập Quốc tế, do đó chúng ta phải biết về điều này. Xin cám ơn các anh chị đã theo dõi.
@ A TP: Em cũng đã tìm ở các trang cả Tiếng Nga lẫn Tiếng Việt mà không thấy dù em rất hy vọng đây là bài thơ của bà. Để chứng minh đó là bài thơ do bà viết ít nhất phải tìm được nguyên bản bằng Tiếng Nga.
Trả lờiXóaVà trong bản tiếng Việt phải có tên người dịch.
Trả lờiXóaVẫn có thể có nhầm nhẫn do 'cẩu thả' trong biên tập TP à.
Bản TP đưa ra ,tôi thấy hay,hoàn chỉnh hơn bản có ai oán 'niệm Phật','cầu Chúa.
Cám ơn HT đã vất vả tìm bài thơ này. Việc bài thơ này không có trong các ẩn phẩm của nữ thi sĩ ÔNGA BÉCGÔN có thể bà không sáng tác bài thơ này hoặc đã sáng tác nhưng không đăng hoặc chưa đăng. Nếu một ngày nào đó, những người thân của bà trưng ra bài thơ này thì sẽ khó khăn cho anh Khổng Văn Đương. Các anh chị thử suy luận mà xem, nếu không có tranh chấp thì cũng khó mà cấp quyền tác giả cho anh Đương được với những chứng cứ mà anh đã trưng ra. Các anh chị có sưu tập được tập thơ của anh Khổng Văn Đương không?
Trả lờiXóaCó người thích nổi danh, làm cái gì cũng muốn "nhất".Có người thích đứng đằng sau hậu trường vì tự biết mình có tính cẩu thả.Nếu cẩn trọng như O.B.mà vẫn..thì những thứ khác chỉ còn có thể giải thích là do cẩu thả thôi(Huhu).Đang viết cho một người, nói với một người, rồi bỗng một ngày nổi hứng lại đem ra cho "bàn dân thiên hạ" chê cười thì âu cũng là đã học đòi thói háo danh của ai đó thôi.Nhưng nhờ đó mà ai đó có cái để chê, để khen hay là để nhớ tới nó(PAET)!
Trả lờiXóa@ TL: Em ko nghĩ là cần có bản dịch với tên người dịch, chỉ cần tìm được bài thơ nguyên gốc bằng Tiếng Nga trong một trang bằng Tiếng Nga có uy tín là đủ.
Trả lờiXóa@ TL & TP: Em cũng thích bản a TP đưa ra. Nó hay và có lý hơn. Với câu "Thân cô đơn kinh khiếp cả trăng hiền" sẽ trở nên có lý hơn nếu TG là O.B, vì thông thường cách ví von của người nước ngoài ko hoàn toàn giống người Việt, vì vậy có thể hiểu người dịch đã phải cố gắng để dịch sát nghĩa. Em đọc một số bài thơ do Thụy Anh dịch thấy bài thơ này rất gần với giọng thơ của O.B về cách gieo vần, nhả nhịp và nội dung bài thơ rất hợp với tính cách và những gì em cảm nhận được về Bà.
TP xin đính chính comment lúc 13:36 ngày 20/7/2011. Chữ phiên âm tiếng Việt Danuýp sửa lại thành Đanuýp.
Trả lờiXóaComment lúc 14:54 ngày 20/7/2011: "Sông đông êm đềm" sửa lại thành "Sông Đông êm đềm".
Thành thật cáo lỗi!
Anh Tuấn Linh! Bài thơ này không ghi dịch giả, chỉ ghi nguồn "Mùa trăng chờ đợi", NXB Phụ nữ 1985. Chắc phải hỏi NXB Phụ nữ thôi và không biết còn hỏi ai nữa!?
TP suy nghĩ rất nhiều về 2 khổ thơ này. TP thấy nó xa lạ quá đối với thế hệ thanh niên cùng trang lứa với tác giả Khổng Văn Đương. Thế hệ thanh niên lúc bấy giờ được thấm nhuần chủ nghĩa duy vật biện chứng & chủ nghĩa duy vật lịch sử. Suốt thời gian ở trường Đại học, TP và các bạn chưa bao giờ nghe được những lời lẽ như thế này. Sau năm 1975, những khái niệm này mới dần dần phổ biến và không bị "phê phán" nữa. TP cứ bị ám ảnh hoài 2 khổ thơ này có lẽ được tác giả trong thời gian gần đây.
Trả lờiXóaEm xin hỏi Trời cao và Đức Phật
Cõi Niết Bàn có mãi mãi mùa xuân?
Đâu trời Tây, đâu xa gần Cực lạc
Mà trần gian đầy bể khổ trầm luân?
Con lạy Chúa Giê-su ban phép lạ
Cho nước Người hết li biệt, chia phôi
Hai chúng con qùi trước Người đa tạ
Xin hòa tan làm một, ngàn đời!
Em dùng một cách khác để tìm xuất xứ của bài thơ. Các địa danh được nhắc đến trong bài thơ: bán đảo Ban - căng, Biển Đen, sông Đa - núp, núi Các - pát đều có liên quan đến vị trí địa lý của Rumani, chứ không phải là nước Nga. Thời gian OB sáng tác những bức thư tình nhiều nhất lại là thời gian nước Nga gặp khó khăn, và bản thân Bà cũng có cuộc sống rất vất vả vì vậy, theo suy diễn của em, khả năng Bà đến những chỗ đó không nhiều. Cá nhân em rất muốn Bà là TG của bài thơ nhưng đến đây thì em ko còn hy vọng.
Trả lờiXóaHai khổ thơ mà a TP nhắc đến thì khổ trên thật vô lý (như em đã đề cập đến), còn khổ sau vẫn có lý bởi TG nói hộ nỗi lòng của một cô gái châu Âu.
Ngày xưa , khi tôi làm quen với bài thơ là trên văn bản giống như TP đã dẫn . Nó " nuột nà " giống như nó nên có " và như người ta tưởng tượng . Chính vì vậy , khi đăng bài thơ dưới dạng ( tạm gọi là ) nguyên bản , tôi cũng thấy " chơi vơi " - như cách nói của VNQ .
Trả lờiXóaNhưng theo tôi , việc cho rằng KVĐ là tác giả có mấy căn cứ :
- Như link của tôi ở bài trước ( 11h46/17/7 ) : người ta đã cấp chứng chỉ tác quyền cho KVĐ - đó là việc làm của cơ quan có trách nhiệm .
- Nếu ko phải của mình , " nhận vơ " để làm gì kia chứ ?
- Quan trọng nhất là nhóm không ít người ở Ru về chứng nhận ( kể cả 4 khổ thơ chép còn lại , trên loại giấy LX viện trợ ). Nếu đó o phải là sự thật thì họ làm thế để làm gì ?
Và ko hiểu mọi người nghĩ sao , chứ đọc mấy đoạn thơ " vụn " của KVĐ do QT dẫn và ở 1 vài chỗ khác , so với " nguyên bản " , tôi thấy khá thống nhất về bút pháp cà cá tính sáng tạo ....
Chỉ có 1 điều : suy luận của TP về 2 khổ thơ đó ko phải ko có lí . Nếu đây là đoạn sáng tác sau này rồi "ghép " vào cho thêm phần " bi ai & hoành tráng " thì thật là 1 hành động ngu ngốc và rồ dại .
Cái này thì thời gian sẽ trả lời...hay vĩnh viễn là 1 bí mật..., có trời mà biết đc ...he he !!!!!!!!!!1
@HT: Trong sáng tác văn học nói chung, thi ca nói riêng có hiện tượng tác giả không cần phải tiếp cận với đối tượng mà vẫn sáng tác được những tác phẩm hay. Ví dụ nhà thơ Tố Hữu chưa từng tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ mà vẫn sáng tác được bài "Hoan hô chiến sĩ Điện Biên" rất hay; thi sĩ Tản Đà chưa một lần lên cung trăng mà vẫn viết được bài "Muốn làm thằng cuội" rất "ngông". Chúng ta có thể tìm nhiều ví dụ nữa ở trong nước và ngoài nước.
Trả lờiXóa@hadongtran: Cơ quan cấp quyền tác giả cho tác giả Khổng văn Đương là của Việt Nam. Việc cấp này có tuân theo luật bản quyền Quốc tế hay chưa thì chúng ta chưa được biết. Có những vụ án văn chương Toà án từ chối thụ lí vì thời gian đã quá lâu, nhân chứng, vật chứng không còn đáng tin cậy. Luật Hình sự của VN cũng qui định những vụ án có thời hạn quá lâu thì không thụ lí. Tác giả nhận vơ để làm chi? Câu hỏi của anh làm TP nhớ lại cái thời bao cấp đẹp đẽ của chúng ta. Lúc đó, con người ta sống rất đẹp và đầy lòng tự trọng. Còn bây giờ, hiện tượng đạo (thơ, nhạc, văn,...) đã không còn là cá biệt nữa. Đây là vấn đề thời sự. Người ta "buôn danh ba vạn, bán danh ba đồng". 2 khổ thơ mà TP nghĩ tác giả mới viết sau này là có lí của nó. Cái thời bao cấp mà tiếp xúc với những khái niệm "cõi Niết Bàn", "trầm luân biển khổ", "miền cực lạc", "chúa Giê-su", "nước người" thì tác giả Khổng Văn Đương tiến bộ quá, Tây quá, Ta quá! Mãi sau năm 1975, chúng tôi mới bằng anh lúc đó.
Ý kiến cuối cùng của TP là tại sao bài thơ "Em đi tìm anh trên bán đảo Bancăng" lại lạc vào ấn phẩm đầy uy tín "ALMANACH - Người mẹ & phái đẹp" một cách dễ dàng đến thế? Nếu trong tập thơ "Mùa trăng mong chờ" không có chẳng lẽ ban biên tập lại tuyển chọn một bài thơ chép tay vô danh sao? Ông Hoàng Điệp, người phát ngôn chính thức của ấn phẩm này đã nói là bài thơ được tuyển từ một giáo trình của trường Đại học, của một khảo cứu hoặc một tạp chí uy tín nào đó. Do đó, sự việc này khó hiểu quá!
Chứng cứ anh Đương đưa ra TP nghĩ rằng, các luật sư sẽ không dễ dàng chấp nhận. Họ yêu cầu chứng cứ này phải được giám định một cách khoa học. Tờ giấy và bút tích phải được trả lời cách đây bao nhiêu năm. Bạn bè anh làm chứng phải được đối chất (kể cả người yêu của anh nữa). Luật sư có thể nghĩ rằng anh đã chép bài thơ của ai đó và đọc cho các bạn anh cùng nghe. Các bạn anh tưởng rằng anh là tác giả. Toà án lạnh lùng lắm! Họ chỉ tin vào chứng cứ có giá trị mà thôi!
Như đã nói,tôi không có cảm tình với cách thể hiện cuộc tình của TG bài thơ nên không có hứng phân tích bài thơ này, tuy nhiên cũng xin đóng góp vài lời về nhận định của các bạn.
Trả lờiXóaTP đã rất tinh tường trong việc phát hiện bất thường trong hai khổ thơ 'đã dẫn'. Điều này rất có thể TG đã chỉnh sửa hoặc thêm vào sau đó, ta để ý rằng khi bài thơ ra đời KVĐ chỉ trong tuổi trên dưới hai mươi, việc nói được những quan niệm tâm linh, cũng như có tâm thức thế giới siêu hình như hai khổ thơ đã chỉ ra là khiên cưỡng, nếu xét về tuổi tác, cũng như quan niệm thời đại, bối cảnh xã hội miền Bắc những năm 60 thế kỷ trước, chưa kể thời đó thật khó cho một ông Buda (Phật) có cơ hội được biết đến ở một nước châu Âu cộng sản phản đối tôn giáo.
Do đó ta có thể cho rằng đúng là tác giả đã sửa đổi. Có những sửa đổi tăng được giá trị bài thơ, nhưng cũng có sửa đổi làm tăng thêm sự lố bịch, cái đó tùy thuộc vào nhận định của người đọc, nhưng có điểm chung là không phải không có tiền lệ về sự sửa đổi, nhưng sửa đổi thì nên công bố, việc đó có lợi hơn cho tác giả.
Việc xác định tác giả, tôi cũng thiên về KVĐ, chính Onga Becgon cũng có một mối tình rất sâu đậm vói một người đàn ông Nga. Mà tôi sẽ dẫn dưới đây kèm theo bài "Mười ngày" về mối tình đó, có lẽ một người đàn bà rất khó có đến hai mối tình sâu đậm để lại hai áng thơ hay đến vậy.
Việc căn cứ vào "giọng" thơ, cách gieo vần, nhả nhịp để nhận định như HT nói chỉ đúng với những bài thơ gốc Việt, trong thơ dịch, dịch giả chỉ căn cứ vào nội dung thơ, sự hiểu biết về tác giả gốc cũng như vốn văn hóa xã hội của bản tân mình, thêm cảm xúc để dịch, bài thơ thành hình theo cấu trúc nào là do chủ quan của anh ta, có thể là lục bát, tứ tuyệt hay con cóc v.v mà nên, cho nên ta sẽ gặp những bài thơ dịch của cùng một bài nhưng khác dịch giả sẽ rất khác nhau- trừ nội dung. Thậm chí có dịch giả không biết chút tiếng nước ngoài nào cũng dịch thơ rất thành công.
Dưới đây là cuộc tình của Onga Becgon và bài thơ "Mười ngày". Mời các bạn tham khảo.
(Phải cắt làm hai)
Trả lờiXóa...Olga và Bexxonov là hai người bạn từ những ngày:
"Thủa còn thơ ngày hai buổi đến trường,
Yêu quê hương qua từng trang sách nhỏ" (Giang Nam)
Cùng yêu thơ ca và những buổi chiều cháy đỏ trên dòng sông Nêva, có lẽ sự đồng điệu về tâm hồn đó chính là nơi bắt đầu cho một tình yêu...Nhưng tiếc thay tình yêu như trò cút bắt...để một ngày bên dòng Nêva nơi chứng kiến bao kỷ niệm, mọi thứ vỡ òa khi Olga hỏi người bạn thân về điều quan trọng nhất, và Bexxonov đã...chết lặng không nói nên lời...quá nhút nhát ư? hay chính anh cũng không biết phải gọi tên cái tình cảm trong lòng mình như thế nào? Tình bạn? Tình yêu - những điều làm người ta dằn vặt đến vỡ vụn trong lòng...Khi Bexxonov nhận ra tình yêu của mình dành cho Olga thì nàng đã xa rồi, vì sự sụp đổ, và vì lòng kiêu hãnh của những ngày tuổi trẻ...
Mười năm sau mối tình đầu như vẫn còn nguyên vẹn trong những vần thơ hai người viết cho nhau, viết về tình yêu thời vụng dại, và bạn có thể cảm nhận được điều đó qua một số bài thơ "Chuyện mười năm", "không đề" hay "bài thơ cuộc đời", cả những lời tự sự động viên bản thân qua những tháng năm một mình đơn độc của Olga như "mùa lá rụng", "không nói", "chuyện tình sông Nêva"...
Câu chuyện trên đây về mối tình Bexxonov-Olga có từ rất nhiều nguồn khác nhau trên Internet, ngay cả những bài thơ của họ cũng vậy, có nhiều dịch giả khác nhau như Bằng Việt, Xuân Diệu, Ngân Xuyên, Thái Bá Tân..., vì thế có thể có nhiều dị bản khác nhau)
Theo "tiến trình" mười năm sau lời tỏ tình dang dở, bài thơ "Chuyện mười năm" do Xuân Diệu dịch là của Bexxonov viết tặng Olga...
Chuyện mười năm về trước
Chỉ có một lần thôi
Em hỏi anh im lặng
Thế là em hờn giận
Để chúng mình xa nhau
Biết đi đâu về đâu
Con đò không bến đợi
Ôi cây xanh tình đời
Có nghe lòng ta gọi
Những mùa xuân đã qua
Tiếng ve về thổn thức
Gió thổi vào đêm hè
Kể chuyện mười năm trước
Chỉ có một lần thôi
Em hỏi, anh im lặng
Thế mà em hờn giận
Để chúng mình xa nhau
Nơi tình yêu bắt đầu
Cũng là điều khó nhất
Trái tim dù biết hát
Nhưng tình đời dễ đâu
Những đôi lứa yêu nhau
Có nghe tôi kể lại
Chỉ một lần trót dại
Thế mà thành chia phôi
Chỉ có một lần thôi
Em hỏi, anh im lặng.
...sau đó Olga viết "Bài thơ cuộc đời" hay còn có bản dịch là "Không đề" (Bằng Việt dịch) về mối tình đầu dành cho Bexxenov đã đi qua thời gian...
Không đề - Onga Becgon
...Năm tháng đắng cay hơn
Năm tháng ngọt ngào hơn
Em mới hiểu bây giờ anh có lý
Dù chuyện xa rồi dù anh xa cách thế
Em hát khác xưa rồi khóc cũng khác xưa theo ...
Tiếp đó Bexxonov đã trả lời cho Olga như sau trong bài "Về bài thơ cuộc đời"
Về bài thơ cuộc đời
Bexxonop gửi Olga
Đừng nhắc nữa em ơi
Lỗi lầm thời quá khứ.
Ngôi sao bùng đốm lửa
Đâu còn nữa màu xanh.
Con chim nhỏ chuyền cành
Cũng bay theo tiếng hát,
Tìm một chiều giá buốt
Hoa sặc sỡ lo âu.
Dòng sông trôi về đâu
Nói làm chi cho khổ
Tình yêu con thuyền nhỏ
Buồm trôi nơi xa khơi.
Gặp gỡ, rồi chia phôi
Yêu thương rồi oán trách
Bây giờ đã xa cách
Nhắc lại mà làm chi.
Thời gian mãi trôi đi
Buồn vui thành kỷ niệm
Bài thơ là câu chuyện
Của ban đầu tình yêu.
Mùa lá rụng
Olga Begon - Bằng Việt dịch
Thiếu cẩn trọng chăng? Hay chỉ đáng nực cười?
Thôi hãy biết kiên tâm, mọi điều đều phải đợi
Diu dàng quá, dịu dàng không chịu nổi
Cơn mưa rơi thầm thì lúc chia ly
Mưa tối rầm nhưng ấm áp nhường kia
Mưa run rẩy trong ánh trời lấp lóa...
Anh hãy cố vui lên dù con đường hai ngả
Tìm hạnh phúc yên bình trong ấm áp cơn mưa.
(nguồn Internet)
Thiệt là hay!
Trả lờiXóaẤy là mạo muội xin tí 'nhận xét' các nhận xét. :)
Bản 2(do TP dẫn) thể hiện trọn vẹn kiểu bút pháp 'lãng mạng Châu Âu' (LMCA), bản 1 (bài đăng) bị 'phá cách' bởi 2 khổ 'oán - khấn', và về ý cũng bị lặp ở các khổ 'oán' đó.
Nếu vẫn cùng một bút pháp,thì 'oán-khấn' cũng sẽ được thể hiện khác như đã thấy.
Giọng của bản 2 là 'giọng nữ' thuần khiết,ở bản 1 'giọng nam' nói thay 'giọng nữ',rồi lại có câu 'giọng nam' tòi ra, làm cho người đọc có cảm giác 'mơ hồ',mâu thuẫn, làm đứt đoạn đi sự 'liền lạc' 'thăng hoa' của cái tình cảm yêu đương mãnh liệt đang được mô tả. Cái 'dở' của bản 1 là ở chỗ ấy. (đương nhiên 'dở' là so với những 'hay' trong bài thơ)
Bản 2 quả thật là cực hay,gọi là 'hay nhất' gì đó...cũng ko ngoa và cũng sẽ ko có chiện xẩy ra cái sự cố 'ngạc nhiên' nào sất! :)
Lời nhận xét của HDT,trộm nghĩ, chính là dành cho bản 2 này.Hai chữ 'thần thánh' mà HDT nhắc đến, là cảm xúc chung của nhiều người (có cả thằng tôi trong đó) thuộc thế hệ những năm 60 thế kỷ trước, khi mới bắt gặp và ngày lập tức trở thành 'môn đồ' của CN-LMCA : đó là "Những người khốn khổ", "Chuyện ngắn Pautốpxki","Người thầy đầu tiên","Cây thông non choàng khăn đỏ","Phát súng","người con gái viên đại úy" ...vv...và ...vv.
Và giờ đây,vẫn y nguyên sự thiêng liêng trước 'ngôi đền thánh'của tuổi trẻ ấy.
'Xin đừng động vào...đền thánh, đang lúc nhậy cảm!'. Hãy coi chừng!
:)
(suy đoán về nguyên tác bài thơ xin phép phát biểu sau)
@QT: tại sao a ko đưa lên mặt tiền?
Trả lờiXóaNhân đọc bài thơ "Ngẫm mình" của tác giả Khổng Văn Đương, TP nhớ đến một bài "thơ" rất nổi tiếng của một sinh viên trường Đại học Quân Y thời bao cấp. Bài thơ nổi tiếng đến mức tác giả của nó bị đi rèn luyện một năm mới được về học tiếp cùng lớp đàn em. Để không khí thảo luận tươi vui, TP xin đăng lại bài "thơ" này.
Trả lờiXóaBảy năm
Bảy năm một gậy một sao (1)
Một cái "Bát Sắt" (2)đeo vào ngang hông
Một cô vợ trẻ má hồng
Một gian phòng nhỏ giữa lòng Thủ đô!
Chú thích:
(1): cấp bậc Thiếu uý
(2): Bằng bác sĩ (viết tắt BS nên anh em gọi đùa là Bát Sắt mình sử dụng hàng ngày)
Ngẫm mình - Khổng Văn Đương
Hỡi nhân tâm ở trên đời
Tìm cho biên giới lòng người ở đâu
Tưởng rằng thời loạn xa nhau
Ngờ đâu nay cũng địa đầu cách ngăn
Sáu năm ở đất Bancăng
Vì yêu để nợ ngàn năm chốn này...
@TL: để đây đọc cũng được, quá nhiều bài cho một tác phẩm thơ thì không công bằng :))
Trả lờiXóa@QT : com của a là một bài viết công phu về O.B đấy chứ,HD cũng nhắc đến một bài thơ của Bà,chuyển sang đề tài thơ O.B cũng đáng lắm.
Trả lờiXóaĐọc các nhận xét bàn bàn luận về thơ của các bác mờ cả mắt, như đi lạc vào rừng. Đúng là cái đầu mình rất "bã đậu" về thơ.
Trả lờiXóaNhận xét của tôi có dẫn từ các nguồn internet nên không tiện nói tất cả là do mình cảm nhận được, những bài thơ của Onga Becgon là phải sưu tầm chứ, nhớ sao hết được, và cả câu chuyện tình của bà nữa, dù sao thân thế và sự nghiệp, tình yêu của bà cũng rất đáng để có dịp nào đó chúng ta đề cập kỹ hơn.
Trả lờiXóaVnq@ Tất cả mớ bòng bong đó cứ quy về "tình yêu" là sẽ trở thành đơn giản, hehe!